
![]() |
Virus HPV là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư cổ tử cung. Ảnh: American Sexual Health Association. |
Không phải tất cả ung thư đều bắt nguồn từ di truyền hay lối sống, một số lại khởi phát từ chính những virus tưởng chừng vô hại. Khi xâm nhập cơ thể, chúng có thể âm thầm làm biến đổi tế bào, gây viêm kéo dài và mở đường cho ung thư hình thành.
HPV
Theo Tổ chức Nghiên cứu Ung thư Vương quốc Anh, virus papilloma ở người (HPV) là loại virus rất phổ biến, có khả năng xâm nhập vào da và các tế bào niêm mạc bên trong cơ thể, bao gồm cả miệng, họng và cơ quan sinh dục. Phần lớn các trường hợp nhiễm HPV không có biểu hiện triệu chứng rõ ràng.
HPV lây lan chủ yếu qua tiếp xúc da kề da, đặc biệt trong hoạt động tình dục. Việc nhiễm virus là yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn đến nhiều loại ung thư, đặc biệt là ung thư cổ tử cung.
Theo thống kê của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC), hơn 9 trong 10 trường hợp ung thư cổ tử cung có liên quan đến HPV. Mỗi năm, tại Mỹ có khoảng 200.000 phụ nữ được chẩn đoán có tổn thương tiền ung thư cổ tử cung, 10.800 người mắc ung thư cổ tử cung do HPV và khoảng 4.000 trường hợp tử vong vì căn bệnh này.
Đáng chú ý, khoảng 4 trong 10 ca ung thư liên quan đến HPV xảy ra ở đàn ông, với khoảng 16.000 trường hợp mới mỗi năm tại Mỹ. Trong đó, ung thư hầu họng và hậu môn là hai loại phổ biến nhất. Sự ra đời của vaccine HPV và các chương trình tầm soát định kỳ đã giúp giảm đáng kể tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh ung thư liên quan đến virus này.
HBV
Virus viêm gan B (HBV) là một trong những tác nhân gây bệnh nguy hiểm nhất cho gan. Đây là loại virus DNA có khả năng nhân lên bên trong tế bào gan và tồn tại lâu dài trong cơ thể nếu hệ miễn dịch không thể loại bỏ hoàn toàn. Khi xâm nhập, HBV tấn công trực tiếp vào tế bào gan, gây viêm và tổn thương mô gan.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đến năm 2022 có khoảng 254 triệu người trên toàn cầu đang sống chung với viêm gan B mạn tính, và mỗi năm có thêm khoảng 1,2 triệu ca nhiễm mới. Bệnh đã gây ra khoảng 1,1 triệu ca tử vong, chủ yếu do các biến chứng như xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan.
Virus lây truyền chủ yếu qua máu, nước bọt, tinh dịch, dịch âm đạo hoặc từ mẹ sang con trong quá trình sinh nở. Ngoài ra, HBV còn có thể lan qua quan hệ tình dục không an toàn, dùng chung kim tiêm, dụng cụ xăm hoặc xỏ khuyên, hay bất kỳ hình thức tiếp xúc nào với máu chứa virus.
Bệnh có thể biểu hiện ở hai dạng là viêm gan B cấp tính, kéo dài trong thời gian ngắn và thường tự khỏi; và viêm gan B mạn tính, tồn tại lâu dài, có thể dẫn đến các biến chứng nặng. Phần lớn người nhiễm HBV không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu, nên dễ bỏ qua.
Đối với những người nhiễm mạn tính, virus có thể âm thầm tàn phá gan trong nhiều năm mà không gây triệu chứng rõ rệt. Khi tổn thương tiến triển, người bệnh có nguy cơ cao mắc xơ gan hoặc ung thư gan, hai biến chứng được xem là nguyên nhân tử vong hàng đầu liên quan đến HBV.
EBV
Virus Epstein-Barr (EBV) thuộc họ herpesvirus, lây truyền chủ yếu qua nước bọt và các dịch cơ thể khác. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, khi đã xâm nhập, virus này có thể “ẩn mình” trong cơ thể suốt đời ở trạng thái ngủ yên, hầu như không gây ra triệu chứng nào. Tuy nhiên, trong một số điều kiện nhất định như căng thẳng kéo dài, thay đổi nội tiết tố hoặc hệ miễn dịch suy yếu, EBV có thể “tái kích hoạt”, khiến người bệnh xuất hiện các triệu chứng trở lại.
![]() |
EBV có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư vòm họng. Ảnh: Shutterstock. |
EBV được xếp vào nhóm oncovirus - các loại virus có khả năng thúc đẩy quá trình hình thành các loại ung thư như ung thư vòm họng và một số loại ung thư hạch. Ngoài yếu tố virus, nguy cơ mắc bệnh còn tăng nếu người đó có tiền sử gia đình, hút thuốc lá, uống rượu thường xuyên, ăn nhiều thực phẩm muối mặn như cá hoặc thịt ướp muối, hoặc đồng thời nhiễm virus HPV.
Herpes
Virus herpes người loại 8 (HHV-8), còn gọi là virus herpes liên quan đến sarcoma Kaposi (KSHV), được xem là tác nhân chính gây nên sarcoma Kaposi - một loại ung thư hiếm gặp và tiến triển chậm. Căn bệnh này thường biểu hiện dưới dạng các nốt hoặc mảng da màu đỏ tím, xanh nâu xuất hiện ở chân, tay hoặc trên cơ thể.
Ở người mắc bệnh, virus xâm nhập vào các tế bào lót mạch máu và mạch bạch huyết, khiến chúng phân chia mất kiểm soát và sống lâu hơn bình thường. Theo thời gian, sự rối loạn này có thể khiến các tế bào biến đổi và trở thành tế bào ung thư. HHV-8 lây lan chủ yếu qua đường tình dục, song cũng có thể truyền qua máu hoặc nước bọt. Giống như các loại herpesvirus khác, HHV-8 sống tiềm ẩn trong cơ thể suốt đời, nhưng hầu hết người mang virus đều không phát bệnh.
HIV
Virus HIV, tác nhân gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), không trực tiếp gây ung thư, nhưng làm tăng nguy cơ mắc nhiều loại ung thư khác nhau, đặc biệt là các ung thư có liên quan đến những virus khác như HPV hay HHV-8.
Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, khi xâm nhập cơ thể, HIV tấn công và phá hủy các tế bào bạch cầu đặc biệt gọi là tế bào T hỗ trợ (helper T-cells), “trung tâm điều phối” của hệ miễn dịch. Việc mất đi những tế bào này khiến cơ thể yếu đi, không còn khả năng chống lại nhiễm trùng hoặc tiêu diệt các tế bào bất thường.
Chính vì vậy, người nhiễm HIV dễ mắc các bệnh do virus khác, trong đó có những virus có khả năng gây ung thư. Một hệ miễn dịch suy yếu cũng mất khả năng tiêu diệt sớm các tế bào ung thư mới hình thành, tạo điều kiện cho chúng phát triển thành khối u ác tính.
Người nhiễm HIV có nguy cơ cao mắc sarcoma Kaposi, ung thư cổ tử cung và một số dạng u lympho ác tính không Hodgkin, đặc biệt là ung thư lympho hệ thần kinh trung ương. Ngoài ra, HIV còn liên quan đến sự gia tăng nguy cơ ung thư hậu môn, ung thư hạch Hodgkin, ung thư phổi, ung thư miệng và họng, ung thư da, cũng như ung thư gan.
Bộ sách “Bí ẩn hướng nội” chứa đựng nhiều thông tin và kiến thức rất hữu ích giúp bạn thấu hiểu chính mình, thoát khỏi vòng luẩn quẩn tự nghi ngờ và đánh đồng bản thân với những định kiến rập khuôn của xã hội. Để từ đó bạn học cách yêu thương và trân trọng con người hướng nội của mình.
Link nội dung: https://www.vanhien.info/nhung-loai-virus-am-tham-nuoi-duong-ung-thu-a14168.html